1. Tứ Niệm Xứ là gì?
Để hiểu Tứ Niệm Xứ là gì, ta có thể tách nghĩa ra với “Tứ” là bốn, “Niệm” là nhớ và nghĩ tới, “Xứ” là nơi chốn.
Theo đó, Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) được tạm hiểu là bao gồm 4 chỗ niệm, 4 chỗ để quan sát, 4 nơi để áp sát tâm vào đấy một cách vững chắc, kiên cố mà những người tu Phật giáo cần phải đặc biệt lưu ý tới, 4 Niệm là: Thân bất tịnh; Pháp vô ngã; Tâm vô thường, Thọ thị khổ. Khái niệm này trong Phật giáo Nguyên Thủy được hiểu là việc thực hành thiền quán sẽ tập trung vào 4 đối tượng bao gồm: Thân (cơ thể); Thọ (cảm giác); Pháp và Tâm. Đây là các phạm trù hay nguyên tắc chính trong giáo lý của Đức Phật. Trước khi bắt đầu thực hành Tứ Niệm Xứ, Phật đã dạy rằng, phải giữ gìn giới luật thì thân tâm mới trong sạch, nhẹ nhàng, khoan thai để bước vào hành thiền và đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Bài kinh Niệm Xứ của Đức Phật được ghi lại rằng: “Này các tỳ – kheo, đây chính là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho tất cả chúng sanh, vượt khỏi ải sầu não, thành tựu chánh trí, diệt trừ khổ ưu, chứng ngộ niết bàn. Đó gọi là bốn niệm xứ”.
Thế nên, Tứ Niệm Xứ là con đường giải thoát duy nhất mà Đức Phật đã dạy cho chúng sanh thông qua kinh điển Nikaya. Phật giáo đã chỉ ra rằng Tứ Niệm Xứ là con đường độc nhất đưa chúng ta đến với sự thanh tịnh đích thực, có thể diệt trừ khổ đau, thoát khỏi sầu não, có được trí tuệ, sự tinh tấn và giúp ta chứng ngộ niết bàn. Nói là duy nhất, độc nhất vì không có ngã rẽ, không có cách thức khác và không thay đổi theo không thời gian, từ Đức Thế Tôn còn tại thế cho đến nay mọi thứ vẫn y như vậy.. cho những ai thực hành theo Tứ Niệm Xứ.
2. Ý nghĩa của Tứ Niệm Xứ
2.1 Thân Quán Niệm Xứ
Trong kinh ghi: “Chánh Niệm về Thân có nội dung là ”Quán thân nơi thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham ưu ở đời”, tạm dịch là: Chánh niệm về thân, hay quán thân nơi thân. Nghĩa là ”Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát cảm giác toàn thân”. Chữ “thân” lặp lại 2 lần nhằm nhấn mạnh quá trình thực hành thì người tu quán sát trực tiếp các cảm giác trên thân khi nó đang xảy ra, đang hiện hữu, đưa đến cái biết như thật về thân.
Nhìn chung, Quán niệm về thân nghĩa là thực hành thiền định về thân nhằm mang lại sự bình yên, thanh tịnh trong cuộc sống. Có thể thực hành Thân Quán Niệm Xứ trong nhiều tư thế: thiền tọa, thiền đứng, thiền hành, thiền nằm, trong các sinh hoạt đời sống.
Việc thực hành quán niệm này thông qua hơi thở, thông qua cử chỉ và thông qua các bộ phận cấu thành, cụ thể:
a. Quán niệm về thân thông qua hơi thở
Hầu hết chúng ta không để ý rằng việc mình đang thở được là hết sức may mắn, chúng ta chỉ xem đó là việc đương nhiên, ai cũng có. Thế nên Quán niệm về thân thông qua hơi nhở nhằm nhắc nhở chúng ta nhớ rõ vai trò quan trọng của hơi thở trong cuộc sống của mình.
Mỗi hơi thở có ngắn có dài, có sâu, có nông, có sâu, thế nên chỉ khi nhận thức được sự hiện diện của hơi thở mới có thể bắt đầu trân trọng vai trò của nó.
Ngay cả Đức Phật cũng đã dạy rằng, khi hít vào thở ra thì chúng ta cần phải ý thức và theo dõi được hơi thở ấy. Hơi thở ra ngắn, dài thì phải biết là ngắn, dài thật sáng suốt và tỉnh táo. b. Quán niệm về thân thông qua các hành động
Hầu hết những thứ quen thuộc như đánh răng, rửa mặt mỗi sáng hay lái xe đi làm mỗi ngày chúng ta làm việc dường như trong vô thức. Thậm chí có khi vừa lên xe là ta cứ đi, không phân tích rõ mình đanng đi đâu.
Thế nên Quán niệm về thân thông qua hành động sẽ giúp ta nhận thức rõ mình đang đi đâu, đang ở đâu, làm gì, nói chuyện với ai, đang ngồi ở vị trí nào, nằm ở đâu,.. chúng ta nhận thức rõ mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình ngay hiện tại. Từ đó, thông qua quán thân giúp cho ta kiểm soát các hoạt động của bản thân, thực hành chánh niệm, tập trung vào những gì đang diễn ra ở hiện tại, gạt bỏ bớt những tạp niệm trong đầu, gây mất tập trung, sao nhãng hay sự suy tưởng lung tung.
Đức Thế Tôn cũng đã khuyên chúng ta phải ý thức trong từng hành động, phải luôn nhận thức được khi mình đi thì biết đi đâu; khi đứng thì biết đứng ở đâu; khi ngồi thì biết mình ngồi như thế nào. c. Quán niệm về thân thông qua các bộ phận cấu thành
Thân của chúng ta do tứ đại hợp thành, tức bốn yếu tố: nước, đất, gió, lửa. Thân chịu sự chi phối của sanh, lão, bệnh, tử.
Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng thân là vô thường, không nên vì nó mà nuôi dưỡng tham lam để phục vụ cho sự an nhàn ở thân. Hay cũng chẳng vì những chuyện khổ đau ở đời mà bi lụy, mọi thứ chỉ là giả tạm, đơn giản là ta đang mượn thân là công cụ để học bài học của mình.
Quán thân để hiểu rằng thân này không khác gì con ngựa để hỗ trợ ta tới đích chứ nó không phải là ta – người kỵ sỹ cưỡi trên lưng ngựa. Thế nên thông qua quán thân giúp kiểm soát các hành động của bản thân và đưa ta trở về với hiện tại
2.2 Thọ Quán Niệm Xứ
Thọ là viết tắt của từ cảm thọ tức là khảo sát tâm lý của chúng sanh. Đây là một trong những cơ sở không thể thiếu được trong việc hình thành nên tâm thức con người. Theo kinh Trung Bộ III, số 140, lời Phật dạy chúng sanh: “Này các Tỳ kheo, do duyên tiếp xúc với lạc nên lạc thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với khổ nên khổ thọ khởi. Do duyên tiếp xúc với bất khổ bất lạc nên bất khổ bất lạc thọ khởi”.
Có 3 trạng thái điển hình của thọ: Lạc thọ (cảm thấy sung sướng, thích thú, hứng khởi..); Khổ thọ (cảm buồn chán, khổ não…); Bất khổ bất lạc thọ (Cảm giác trung dung, không khổ cũng không lạc). Chúng ta thường phải dùng ý thức để xác nhận sự hiện diện của “thọ”. Thọ là để cảnh tỉnh chúng ta rằng một việc có thể vui đó nhưng cũng có thể là khổ đi cùng với nó. Ví dụ như một người đang hạnh phúc thì vẫn lo sợ một ngày nào đó người ấy có thể rời xa mình, hôm nay mình tự hào vì chiến thắng thì ngày mai mình vẫn có thể thất bại,.. Khi nhận diện được nó, ta quán niệm thọ để không bị cái an lạc hay khổ đau lôi kéo mình, thay vào đó làm chủ được tâm của mình trước những cảm thọ.
Đừng bỏ lỡ:
Trả lời